Chiêm tinh học và Giải phẫu sự Hoài nghi (1/2)

Astrology and the Anatomy of Doubt - Garry Phillipson

 

Phần Một: Giới thiệu về sự Hoài nghi

Nghi ngờ là bạn đồng hành của mọi chiêm tinh gia. Chúng ta nghe những ngờ vực về chiêm tinh từ bạn bè, gia đình, truyền thông, các nhà khoa học, tổ chức tôn giáo, khách hàng – thậm chí là từ những chiêm tinh gia khác. Chúng ta phản ứng như thế nào khi ấy? Thông thường là, theo cách sai lầm.

Để ví dụ cho việc tôi nói rằng chúng ta phản ứng “theo cách sai lầm”, hãy nói về một quý ông đã liên lạc với tôi sau khi đọc được bài phỏng vấn một nhóm người hoài nghi chiêm tinh trong quyển sách Astrology in the Year Zero¹ của tôi. Ông ta nói một cách kín đáo rằng những bài phỏng vấn đó được chi trả bởi một tổ chức đen tối (và được tài trợ, như lẽ thường, bởi CIA) điều khiển thế giới với sự trợ giúp của chiêm tinh học. Tổ chức ấy muốn giữ kiến thức chiêm tinh học cho riêng họ và do đó, đã tài trợ cho những thành phần hoài nghi này để mọi người không thể nào biết được những gì họ muốn giữ bí mật. Ông ta ước chừng mỗi bài phỏng vấn như vậy sẽ được trả khoảng $400,000. (Có người nào nghĩ mình đã chọn nhầm nghề rồi không?)

Ẩn dưới sự tưởng tượng phong phú này là một quan điểm phổ biến giữa các chiêm tinh gia khi họ nghĩ về sự nghi ngờ. Quan điểm này cho rằng chiêm tinh học hiển nhiên là đúng và chính xác cho bất kì ai thử qua nó; vì thế, những người nghi ngờ nó hẳn là không có kiến thức hoặc đang phục vụ cho một mục tiêu ám muội nào đó.

Trong vài trang tiếp theo, tôi sẽ chỉ ra rằng quan điểm này, mặc dù thoạt nhìn rất ủng hộ chiêm tinh, nhưng thật ra lại dựa trên những tư tưởng không hề hoà hợp với chiêm tinh. Và để tiến gần đến việc thật sự hiểu chiêm tinh là gì và hoạt động như thế nào, chúng ta phải học vài bài học quan trọng từ sự nghi ngờ.

Chiêm tinh học và Sự hoài nghi: Câu chuyện đến ngày hôm nay

Cho bạn đọc nào không quen thuộc với những cuộc đối thoại rời rạc giữa chiêm tinh gia và những người hoài nghi, đoạn văn sau chứa phần tóm tắt rất ngắn gọn. Những ai muốn chi tiết hơn có thể tham khảo phần nguồn được trích dẫn ở cuối bài viết.

Sự hoài nghi xuất hiện ở chiêm tinh trải dài từ những cuộc tranh luận đã được nghiên cứu và chuẩn bị kỹ lưỡng đến những cuộc tranh luận thiếu thông tin và rời rạc. Về khía cạnh này, chúng phản chiếu lại phạm vi hồi đáp của các chiêm tinh gia. Đã có những trường hợp thành kiến xâm nhập vào cuộc tranh luận của những người hoài nghi như một cách nghiêm trọng² – nhưng không có chứng cứ nào cho thấy tất cả những phát hiện của phía hoài nghi đáng bị quét lên bởi cây cọ này. Tồn tại một cốt lõi trong những chứng cứ được chấp nhận về mặt khoa học ủng hộ việc chiêm tinh phần nào có hiệu quả, và điều này đã trụ vững trước những nỗ lực tái lặp hòng bác bỏ nó;³ tuy nhiên, quy mô và mức độ của sự hiệu quả này quá nhỏ và chuyên biệt đến mức ít nhất nó không dễ chấp nhận với các chiêm tinh gia cũng như với phía hoài nghi.

Giờ thì, chuyện gì sẽ xảy ra nếu sự ngờ vực được thảo luận và cân nhắc bởi các chiêm tinh gia? Gần như là luôn luôn, mọi chuyện sẽ trông như thế này: Một người hoài nghi chiêm tinh nói rằng, “Nhìn đây, đây là bằng chứng cho thấy chiêm tinh học không hiệu quả.” Chiêm tinh gia khi đó sẽ cố gắng chứng minh rằng bằng chứng đó đã được thu thập sai hoặc được hiểu không chính xác. Nói cách khác, chúng ta cố gắng giành chiến thắng trong cuộc tranh luận. Và những cuộc tranh luận, như những trò chơi, chỉ có thể thắng hoặc thua khi cả hai bên đồng ý với các quy tắc cơ bản. Để tham gia cuộc tranh luận, chúng ta phải thừa nhận rằng khung tham chiếu của phía hoài nghi có thể áp dụng được cho chiêm tinh học.

Tôi muốn nói rằng đây là một bước quá giới hạn cần thiết. Bằng cách tiếp nhận nó, chúng ta bỏ lỡ một cơ hội – một cơ hội để xem xét và học hỏi từ những ngờ vực, trong một khung tham chiếu chiêm tinh học. Thay vào đó, tôi nghĩ, hoàn trả lại sự nghi vấn trong chiêm tinh sẽ giúp chúng ta đi đến một sự hiểu biết tốt hơn về môn học này, cũng như những yếu tố giúp chúng ta đọc bản đồ sao một cách chính xác hơn. Tuy nhiên, vẫn có nhiều khúc quanh co trong hành trình này trước khi chúng ta đạt được đến đích. Các bạn đọc thân mến, để thuyết phục các bạn rằng những khúc quanh co ấy là xứng đáng, hãy để tôi trình bày chi tiết hai lý do tại sao các chiêm tinh gia phải quan tâm nhiều hơn đến những hoài nghi về chiêm tinh học.

Lý do thứ nhất: Cái Nếm của Liều thuốc Dành Cho Chính Chúng ta

Tại một thời điểm nào đó, hầu hết mỗi chiêm tinh gia đều phải nói với khách hàng của mình rằng tốt hơn hết họ nên đối mặt trực diện với thứ khiến họ khiếp sợ hoặc đau lòng nhất, che giấu chúng chỉ khiến họ nhỏ bé hơn mà thôi. Nếu chúng ta đối mặt và xoa dịu lấy nỗi đau, chúng ta có thể nhóm nó lại, học hỏi từ nó, và từ đó trở nên mạnh mẽ hơn. Điều này khá phổ biến trong thần thoại, cổ tích và các vấn đề tâm lý: Như trong nỗ lực cố gắng chữa lành vết thương của mình, Chiron trở thành một người thông thái và giúp ích cho mọi người nhiều hơn. Vị công chúa nhận ra con ếch mà cô ấy không chấp nhận được ngày nào giờ đã trở thành một hoàng tử. Nhà tâm lý học James Hillman nhận định rằng: “Linh hồn lĩnh hội thông qua nỗi đau” và “Nỗi đau cùng đôi mắt là một và như nhau cả.”⁴ Hay Carl Jung đã viết: “Chỉ những nhà trị liệu đã tổn thương mới có thể chữa lành.”⁵

Thế tổn thương của các chiêm tinh gia là gì? Còn gì khác ngoài sự nghi ngờ – việc phần lớn bạn bè của chúng ta cho rằng sở thích này không có nghĩa gì hơn ngoài sự ngây thơ và dễ gạt. Có lẽ chúng ta, như những chiêm tinh gia, nên nghe theo lời mách bảo của trái tim mình và học hỏi từ chính sự phiền lòng này; có lẽ chủ nghĩa hoài nghi trông có vẻ nặng nề kia sẽ mang đến cho chúng ta vài thứ để mở mang và học hỏi nếu chúng ta được chuẩn bị để thật sự đón nhận nó.

Lý do thứ hai: Sự Học về Ý nghĩa

Chiêm tinh học, đầu tiên và quan trọng nhất, là sự học về ý nghĩa. Chúng ta nghiên cứu các mẫu hình trên thế giới không phải vì tự bản thân chúng mà vì ý nghĩa trong các mẫu hình đó. Chúng ta không quan sát những gì thường lệ ở bầu trời hoặc ở người bạn của chúng ta chỉ để soạn ra hàng loạt đề mục ngẫu nhiên trong một danh sách vô tận (như thể chúng ta là một người nghiện sưu tập các con số của những đầu máy xe lửa mà chúng ta nhìn thấy và mở rộng vấn đề từ xe lửa sang “mọi thứ trong vũ trụ” vậy). Chiêm tinh gia chúng ta lưu ý những điều lặp đi lặp lại này bởi niềm tin rằng những gì chúng ta quan sát hàm chứa một ý nghĩa – và điều này hoạt động theo hai hướng: tác động từ trên xuống dưới, ảnh hưởng từ dưới lên trên. Nếu sao Thổ vuông sao Hoả ở thế giới trên kia, tôi ngờ rằng nó sẽ có một ý nghĩa tương ứng ở thế giới dưới này; nếu Jim trụ được công việc hơn hai tuần, tôi đoán rằng khía cạnh ấy cũng sẽ được phản ánh một cách đầy ý nghĩa ở thế giới trên kia – thông qua bản đồ sao của Jim.

Mặc dù nguyên tắc chung này – các mẫu hình ẩn chứa những ý nghĩa – không thể tách rời khỏi chiêm tinh học, nhưng thật lạ lùng khi các chiêm tinh gia không hề quan tâm đến (những gì mà tôi cho là) mẫu hình hiển nhiên nhất của chính chiêm tinh: rằng chiêm tinh học luôn bị che bóng bởi sự nghi ngờ. Bài viết này nhằm mục đích tìm kiếm ý nghĩa của mẫu hình đó.

Ngoài lề: Liệu Sự Hoài Nghi Có Tự Động Tan Biến?

Tôi đã nói rằng chiêm tinh học cùng sự nghi ngờ là đôi bạn song hành, và tôi nhận thức được rằng đây là điều mà nhiều chiêm tinh gia, cùng những người ngờ vực, sẽ thống nhất với nhau trong việc phản đối nó. Trong các chiêm tinh gia sẽ có một người đôi khi bắt gặp các khung cảnh của một thời “hoàng kim”, khi toàn bộ nhân loại thấm nhuần một triết lý sống tự nhiên và sống theo nó, và những chiêm tinh gia là nhân vật có quyền lực được tôn trọng trong xã hội. Theo cách khác, một cách khoa học hơn, các chiêm tinh gia tin rằng “thời hoàng kim” vẫn chưa đến – và nó sẽ được mở ra bằng việc kiểm nghiệm và phát triển các phương pháp chiêm tinh, cho đến khi nó đạt được độ chính xác 100%.

Giữa những người hoài nghi có một quan niệm rằng việc chiêm tinh học tồn tại được một thời gian dài là bởi lẽ theo thời gian, mọi người đã cả tin hơn và không còn đủ khả năng phản biện. Nhân loại chỉ cần phát triển một chút nhạy bén hơn (họ lập luận) và chiêm tinh học sẽ được đưa vào đống phế liệu của Những Ý Tưởng Hay Ho Nhưng Xui Thay Lại Không Hiệu Quả.

Do đó, với những chiêm tinh gia và người thuộc phái hoài nghi trên, tình thế mơ hồ và nghi ngại hiện tại đối với chiêm tinh là một giai đoạn trên con đường dẫn đến thất bại – hoặc chiến thắng – sau cùng của chiêm tinh. Xin lưu ý rằng điều này nhìn nhận chiêm tinh gia ngang hàng cùng với phía hoài nghi trong việc tin rằng không tồn tại một tầm quan trọng sâu kín, hay một ý nghĩa nào, trong chuyện chiêm tinh hiện đang bị bủa vây bởi nghi ngờ – nó chỉ được nhìn nhận như một giai đoạn qua đi trong lịch sử.

Trong phần tiếp theo, tôi muốn trình ra hai luận điểm: 1) Đó là, từ lúc lịch sử được ghi lại cho đến nay, nghi vấn về chiêm tinh không phải là một giai đoạn để trải qua. Trong khi các hình thức nghi ngờ đã thay đổi và chuyển hoá qua nhiều thế kỷ, bản thân sự nghi ngờ vẫn chưa bao giờ biến mất. Lịch sử cung cấp rất ít cơ sở để công nhận một tương lai vắng bóng sự nghi ngờ dành cho chiêm tinh, bởi vì chưa thời đại nào mà chiêm tinh thoát khỏi nghi vấn dành cho nó. 2) Cũng thế, nếu chúng ta tuân theo một mẫu mực bảo rằng chiêm tinh đã tự do thoát khỏi, chúng ta đã hiểu sai bản chất của môn học này.

Bóc tách sự Hoài nghi

Vậy, có thật là sự nghi ngờ luôn luôn song hành với chiêm tinh? Để nhận định rằng nó luôn như thế, tôi muốn trình bày một số trích dẫn từ những người hoài nghi xuyên suốt lịch sử.

Để sắp xếp thông tin lịch sử này, sẽ hữu ích khi phân chia nghi vấn thành ba loại, điều này được giải thích rõ nhất dựa trên sự tương đồng của chúng. Nếu ai đó nói với bạn họ đã chế tạo thành công cỗ máy biến than đá thành kim cương, hẳn bạn sẽ muốn hỏi ba điều sau đây:

1) Nguyên lý: Có khả thi không, về mặt nguyên lý, khi bảo có thể biến than đá thành kim cương?
2) Quy trình: Có khó khăn nào về kỹ thuật biến điều này thành chuyện bất khả không?
3) Thực tiễn: Kim cương sẽ thật sự xuất hiện từ cỗ máy này chứ?

Tương tự, chúng ta có thể thấy được ba hình thức nghi ngờ riêng biệt trong chiêm tinh học:

1) Nghi ngờ về nguyên lý của chiêm tinh: khuôn khổ lý thuyết cho phép chiêm tinh hoạt động.
2) Nghi ngờ về quy trình của chiêm tinh: các kỹ thuật, phương pháp mà chiêm tinh gia sử dụng.
3) Nghi ngờ về tính thực tiễn của nó: kết quả cuối cùng, thông tin mà chiêm tinh gia đưa ra khi họ đọc bản đồ sao.

Phần Hai của bài viết này đưa ra những ví dụ xuyên suốt lịch sử của ba loại nghi ngờ – nghi ngờ về nguyên lý, quy trình hay thực tiễn. Điều này sẽ cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh, rằng “nghi vấn về chiêm tinh học” thực sự trông như thế nào (giả sử như có người còn xa lạ với khái niệm này) và đưa ra những bằng chứng cho thấy thành phần hoài nghi có mặt trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử. Cùng với những thông tin ấy, Phần Ba sẽ quay trở lại phân tích mỗi loại nghi ngờ và ý nghĩa chúng có thể biểu thị để hiểu rõ chúng hơn trong khuôn khổ chiêm tinh học.

Phần Hai: Hoài nghi trong dòng Lịch sử

Nghi ngờ thứ nhất: Nguyên lý

Dạng thứ nhất của hoài nghi xoay quanh vấn đề nguyên lý: Có khả thi không về mặt nguyên lý để chiêm tinh có thể hoạt động? Không nghi ngờ gì, điều này được đặt ra bởi những người thích móc nối tư tưởng trong chiêm tinh với những hệ tư tưởng khác về thế giới. Họ sẽ phỏng đoán xem liệu hai hệ tư tưởng có thể đồng nhất hoặc cùng nhau tồn tại, nếu câu trả lời là không, chiêm tinh được kết luận là một câu chuyện hão huyền.

Trong xã hội hiện đại Tây phương, chiêm tinh thường được đong đếm đối lập với khung tham chiếu của khoa học. Để ví dụ, ba nhân vật được các chiêm tinh gia xem như là thầy cả của trường phái hoài nghi – Geoffrey Dean, Arthur Mather, and Rudolf Smit – đã kể rằng: “Chúng tôi bắt đầu [chiêm tinh học] cũng như các chiêm tinh gia bắt đầu con đường của họ – chúng tôi tính toán bản đồ sao, thấy rằng nó có vẻ đúng, và rồi bị lôi cuốn. Chiêm tinh học trở thành một niềm đam mê… chúng tôi càng bị thuyết phục rằng nó thật sự đúng đắn.” Cho đến khi họ kiểm nghiệm xem những giả định chiêm tinh học của họ có giá trị trong khuôn khổ của khoa học hay không. “Chúng tôi bàng hoàng khi nhận thấy những giả tượng và ngộ nhận dường như giải thích tất cả. Thế giới đẹp đẽ của chúng tôi về chiêm tinh từ đấy sụp đổ.”⁶

Những quý ngài trên mong đợi chiêm tinh học sẽ được chứng thực bởi khoa học đương thời. Và họ không phải là những người đầu tiên. 3800 năm trước, chúng ta nghe về một chiêm tinh gia Babylon theo dõi một kì nguyệt thực mà ông ta ngờ rằng đó là điềm gở. Tuy nhiên, để chắc chắn, ông ta quyết định kiểm tra sự nghi ngờ của mình bằng một cách đi ngược lại với khoa học thời đó và đọc chỉ dẫn từ ruột của một con vật được cúng tế.⁷Vấn đề ở đây không nhằm đánh đồng khoa học hiện đại với việc đọc gợi ý từ ruột một con vật đã chết, mà thay vào đó là xuyên suốt ngàn năm, chiêm tinh luôn có một sự mơ hồ nhất định, vừa đủ để khiến bất kì bộ phận đương thời nào có uy quyền phải bắt tay vào minh chứng nó.

Bài có thể cùng chủ đề:  Chiêm tinh y học: Họ đã làm điều đó như thế nào?

Nổi lên theo thứ tự thời gian giữa đọc nội tạng động vật và khoa học là Thiên Chúa giáo; trong nhiều thế kỉ ở phương Tây, Thiên Chúa giáo mang đến một khung tham chiếu mà chiêm tinh học cố gắng nhét mình vào vừa vặn. Vậy nên, vào thế kỉ 12, chúng ta có tu sĩ Michael Glycas⁸, và vào thế kỉ 13, Bishop Stephen Tempier⁹ – cả hai đều phản đối việc chiêm tinh học nhất thiết phải ám chỉ rằng mọi thứ đều có định mệnh, và nếu như mọi thứ đều được ấn định trước, thì Ngày phán quyết sẽ trở thành vô nghĩa. Vì lẽ đó, chính chiêm tinh học mới là thứ vô nghĩa.

Một phản biện tương tự được đề khởi bởi St. Augustine: “Vì sự dịu dàng hãy ca tụng Chúa và nói ‘Xin nhân từ với con; đem sự cứu chữa tới một tâm hồn đã lầm lỗi phản bội ngài’… Sự thật này là toàn bộ sự cứu rỗi của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia lại cố gắng bài trừ nó. Họ bảo chúng ta rằng duyên cớ của các tội lỗi đã được định đoạt trên các tầng trời và chúng ta không thể thoát khỏi, và rằng lỗi này hay lỗi nọ là kết quả của sao Hoả sao Thổ hoặc sao Kim.”¹⁰ Ông định rõ chiêm tinh học gắn liền với thuyết định mệnh, và vì Thiên Chúa giáo thể hiện ý chí tự do, chiêm tinh học bị bác bỏ như là một điều bất khả.

Cicero, tương tự, cũng không đồng tình với quan điểm số phận của một người đã được phán quyết, dù lý lẽ của ông được xây dựng bởi một niềm tin không quá to tát như trên: “Tôi không bao giờ nghĩ rằng việc biết trước tương lai sẽ hữu ích gì cho chúng ta. Sẽ khổ sở xiết bao cho cuộc đời của vua Priam nếu từ tuổi thiếu niên anh ta đã nhìn thấy trước được những tai hoạ đang đợi mình lúc tuổi về già!”¹¹

Một kiểu phản biện khác cho thấy từ chính suy nghĩ rằng các hành tinh và sự sống trên Trái Đất có sự kết nối đã là một suy nghĩ tức cười, về mặt nguyên lý. Cuộc tranh luận này (mặc dù những người tham gia không phải lúc nào cũng nhận thức được mình đang dùng lấy nó) vẫn dựa trên quan niệm về cách thức vận hành của vũ trụ và loại ảnh hưởng nào được cho là có liên quan đến chiêm tinh học. Richard Dawkins có nhiều ví dụ về cách nhận định này.¹² Như: “Một hành tinh ở xa đến mức lực hấp dẫn của nó đối với một em bé sẽ bị khuất lấp đi bởi lực từ việc mổ của bác sĩ.” Điều này thật sự bao hàm hai luận điểm: thứ nhất, ý kiến cho rằng những hành tinh quá xa xôi để có thể gây ra ảnh hưởng; thứ hai, ý kiến cho rằng, nếu vì lý do nào đó chúng có ảnh hưởng, thì cùng với dấu hiệu tương tự, sẽ có rất nhiều ảnh hưởng khác cùng tồn tại, và chỉ tính đến những ảnh hưởng nào gần nhất.

Cả hai ý đều được tìm thấy ở Cicero: “Khoảng không … ngăn cách Mặt trời với sao Hỏa và sao Mộc với sao Thổ … là mênh mông vô hạn. Ảnh hưởng nào có thể truyền được từ khoảng cách đấy tới … Trái Đất?” Và: “Thật là ngu ngốc để tưởng tượng, rằng trong khi chúng ta tính đến những chuyển động và thay đổi ở bầu trời, chúng ta lại không để tâm đến những thay đổi trong không gian ngay xung quanh chúng ta…?”¹³

Plotinus, người không có mong muốn phản biện chiêm tinh hoàn toàn, nhưng cũng phản đối, về mặt nguyên lý, tới ý tưởng rằng các hành tinh là nguyên nhân gây ra mọi việc: “… vô số vật thể sống được sinh ra và tiếp tục tồn tại: để quán xuyến liên tục mỗi cá thể riêng biệt; để khiến họ nổi danh, giàu có, đói nghèo, đầy dục vọng… đây là cuộc đời kiểu gì cho các vì sao vậy, làm sao chúng có thể đảm đương một nhiệm vụ quá sức khổng lồ?”¹⁴ Một kiểu phản đối khác cho rằng những biểu tượng chiêm tinh không thật sự tồn tại trong thực tế. Richart Dawkins thuyết phục chúng ta hãy “Để ý xem… nó vô nghĩa thế nào khi nói những thứ như ‘sao Hải Vương di chuyển vào Bảo Bình’. Bảo Bình là một tập hợp lẫn lộn những ngôi sao có khoảng cách không đều nhau đến chúng ta, hoàn toàn không có kết nối nào với nhau ngoại trừ việc chúng cùng cấu thành nên một hình dạng (vô nghĩa) khi nhìn từ một nơi… nhất định trong vũ trụ (tức là ở đây). Một chòm sao thậm chí không phải là một thực thể…”¹⁵

Hơn 500 năm trước, Pico họ Mirandola đã đề xuất những phản biện với tinh thần tương tự: sự phân chia vòng tròn hoàng đạo vào cung và nhà là vô nghĩa, cũng như sự phân chia của nó vào 360 độ¹⁶. Một lần nữa, sự phản đối ở đây chính là công cụ của các chiêm tinh gia – cung, nhà, độ – không thật sự tồn tại trong sự phân giải cuối cùng.

Bạn sẽ thấy rằng các ví dụ có thể nhân lên gấp bội, nhưng tất cả những gì tôi cố gắng thực hiện ở đây chính là đưa ra những mẫu ví dụ tiêu biểu của các loại nghi vấn khác nhau. Tổng hợp lại tất cả những nghi vấn đối với chiêm tinh về mặt nguyên lý: xuất hiện vài câu hỏi về việc có hay không sự tồn tại của đạo đức hoặc lợi ích khi nhìn trước được tương lai, nhưng phần lớn sự bất bình xoay quanh vấn đề chiêm tinh học đối nghịch với sự hiểu biết thông thường, với mọi thứ chúng ta có thể trải nghiệm và phỏng đoán về thế giới. Tóm lại, sự phản biện ở đây chính là chiêm tinh học, về mặt nguyên lý, rất vô nghĩa.

Nghi ngờ thứ hai: Quy trình

Sự khác biệt giữa phản biện chiêm tinh học về mặt nguyên lý và phản biện chiêm tinh học về mặt quy trình đã được trình bày một cách độc đáo bởi Bishop Robert Grosseteste vào thế kỉ 13. Ông đã yêu cầu độc giả của mình giả sử trong chốc lát rằng “các chòm sao có một ý nghĩa và tác động đến thành quả của ý chí tự do, sự kiện ngẫu nhiên, cùng hành vi của con người, tuy nhiên (thậm chí trong những hoàn cảnh đó) nó cũng không khả thi để các chiêm tinh gia phán đoán về những vấn đề này,”¹⁷ bởi sự khó khăn, mơ hồ, và đối lập trong quy trình của chính chiêm tinh.

Như vậy, nếu trong ví dụ chế tạo kim cương, thì lập luận sẽ là: “Hẳn rồi, về mặt lý thuyết thì việc biến than đá thành kim cương là khả thi, nhưng vấn đề nằm ở quá trình thực hiện biến nó thành một việc bất khả.” Bây giờ chúng ta hãy xét xem làm thế nào mà loại phản biện này áp dụng được với chiêm tinh.

Ít nhất là đối với bản đồ sao gốc, đã có chỗ cho sự nghi ngờ ngay từ lúc bắt đầu. Đôi khi, dĩ nhiên, giờ sinh không được xác định chính xác. Nhưng ngay cả khi chính xác, rắc rối vẫn tiếp diễn. Sextus Empricus chỉ ra rằng, “… thời khắc giờ sinh được xác định cũng là một vấn đề đáng nghi vấn – đó là khi đứa trẻ bắt đầu ló ra với không khí lạnh bên ngoài, hay khi nó đã ra khỏi bụng mẹ một chút rồi, hay khi nó đã được hạ xuống một chỗ vững vàng?”¹⁸

Sextus cũng nêu lên vấn đề về bản đồ sao lúc thụ thai, giống như Favorinus, người cho rằng điều này sẽ tốt cho một bản đồ sao hơn là thời khắc chào đời. Hiển nhiên cũng có những ghi chép của các chiêm tinh gia – tên gọi Antipater và Achinapolos – sống ở thế kỉ 3 TCN, ủng hộ cho bản đồ sao thụ thai; Bảo tàng Anh vẫn lưu giữ một bản đồ sao thụ thai từ năm 258 TCN.

Tranh cãi giữa chào đời với thụ thai được lật lại bởi Pico họ Mirandola (cùng với những người khác), người đã đồng thời chỉ ra rằng các chiêm tinh gia cũng bất đồng về việc bản đồ sao của một triều đại nên được lập lúc vị vua được truy tôn hay lúc ngài ta được đeo vương miện²¹. Mọi thứ vẫn tiếp tục là một vấn đề nóng hổi trong chiêm tinh học – ví dụ như Dean, Ertel, Kelly, Mather & Smit (từ đây được xác định là Dean và công sự) đã đề cập rằng câu hỏi “một giờ sinh chính xác… quan trọng như thế nào?” là một nghi vấn cần được làm rõ²².

Dean và cộng sự nhận xét “nội dung thông tin của bản đồ sao luôn vượt quá khả năng xử lý của chúng ta. Điều này có nghĩa là các chiêm tinh gia… đã bị buộc phải tập trung vào bất kì một tập hợp con các yếu tố nào từ kinh nghiệm của họ, hoặc từ kinh nghiệm của người dạy họ, đã được cho là ‘chính xác.’ Nhưng tập hợp ‘chính xác’ thường hiếm khi giống nhau giữa các chiêm tinh gia.”²³

Vấn đề cũng được nhận ra bởi Ptolemy: “Chúng ta sẽ phải từ chối việc thực hiện phép tiên tri cổ, thứ kết hợp đến hầu hết hoặc tất cả các vì sao, bởi phương pháp này quá đa dạng và gần như là vô hạn… và hơn thế nữa chúng ta sẽ bỏ quên chúng bởi sự khó khăn trong cách sử dụng và theo dõi.”²⁵

Sự thiếu vắng tính nhất quán giữa các chiêm tinh gia trong việc sử dụng nhân tố nào trong bản đồ sao của họ cũng được nêu lên bởi Pico họ Mirandola như một nguyên cớ dẫn đến sự nghi ngờ. Ông ấy đặc biệt than phiền rằng người Canh-đê (Chaldean) chỉ có một cung cho Thiên Bình và Thiên Yết nhưng giờ đây chúng đã là hai cung tách biệt, và hỏi rằng làm thế nào mà chúng có giá trị.²⁶

Thứ mang chúng ta tiến đến gần một vấn đề đã quấy rầy chiêm tinh trong cả thiên niên kỉ, chính là sự khác biệt giữa vòng hoàng đạo thiên văn và vòng hoàng đạo nhiệt đới. Richard Dawkins trình bày như sau: “Ngày sinh của tôi (26 tháng Ba) được chỉ ra trong tài liệu là cung Bạch Dương, nhưng đấy là cung Mặt trời mà người nào sinh cùng ngày với tôi sẽ có nếu Ptolemy là người soạn luật cho tất cả những thứ này. Do có sự thay đổi tuế sai… nên cung Mặt trời thực tế (nếu bạn có thể gọi đó là thực tế) của tôi sẽ là Song Ngư.”²⁷

Một lần nữa, chẳng có điều gì mới lạ ở đây cả – cái quan điểm đã được nêu lên, ví dụ, bởi Origen vào thế kỉ 2 CN: “Có một định lý xoay quanh việc chứng minh rằng vòng tròn hoàng đạo di chuyển giống như các hành tinh từ tây sang đông, một độ mỗi trăm năm, và điều này trong thời gian dài thay đổi vị trí của mười hai cung hoàng đạo, vậy nên cung hoàng đạo đã được tính toán và cung hoàng đạo thực tế có sự khác biệt; và những tiên đoán, họ nói rằng, không được tìm thấy ở cung hoàng đạo thực tế mà ở cung hoàng đạo đã được tính toán từ vòng tròn hoàng đạo; điều này thực sự không thể hiểu được.”²⁸

Một vấn đề khác đôi khi được khởi lên ở quy trình chính là sự thiếu vắng tính nhất quán giữa các chiêm tinh gia. Từ ngày 26 tháng Ba, năm 699 TCN, chúng ta đã có ghi chép về sự bất đồng này giữa các nhà chiêm tinh: “Kẻ nào đã viết như thế này tới nhà vua, hỡi đức vua của tôi? Tôi xin lặp lại: hắn ta không hiểu sự khác nhau giữa sao Thủy và sao Kim.”²⁹ Một thiên niên kỉ rưỡi sau, chúng ta lại tìm thấy ghi chép của Ibn Ezra: “Nếu bạn đọc qua một quyển sách của Abu Ma’shar về góc hợp của các hành tinh, đừng để tâm đến bất kì thứ gì về nó; không có con người biết suy nghĩ nào sẽ đồng ý với nó.”³⁰

Danh sách những bất đồng này có thể kéo dài đến vô tận. Những tranh cãi như thế thổi bùng lên sự hoài nghi về chiêm tinh học, như đã phản ánh trong nhận xét của Dean và cộng sự, người đã lưu tâm đến “bất đồng kịch tính về những thứ cơ bản như vòng hoàng đạo, hệ thống nhà, và nếu có, hành tinh nào đã di chuyển qua bảy nhà đầu tiên, các góc hợp, sai số, phương pháp nào cho bản đồ sao tiến trình, và tương tự”³¹ và cho rằng đây là một trong những thứ gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến độ tin cậy của chiêm tinh học.

Điều này được lặp lại bởi nhà chính trị và triết học Francis Bacon, viết vào năm 1623: “Về chiêm tinh học, nó đầy ắp sự mê tín, vậy nên thật hiếm có để khám phá ra một sự vững chắc từ nó. Dù vậy, tôi thà gạn lọc nó còn hơn hoàn toàn chối bỏ nó.”³² Các chiêm tinh cũng thế, cũng mong muốn một lối giải quyết cho tất cả những thiếu sót trong lĩnh vực – ví dụ như John Gadbury vào năm 1703: “Tôi ước gì môn nghệ thuật cao quý này có thể được hoàn thiện”³³ và Dennis Elwell vào năm 2000: “Với những kỳ vọng của chúng ta, thật điên rồ khi chúng ta không thể đạt đến sự nhất trí về những gì chiêm tinh nói, chứ không phải sự nhất trí về những gì một vị chiêm tinh gia cụ thể nói.”³⁴

Nghi ngờ thứ ba: Thực tiễn

Nếu bạn bị thuyết phục rằng than đá không thể nào biến thành kim cương về mặt nguyên tắc và rằng, trong bất kì trường hợp nào, sẽ có những vấn đề không thể giải quyết được trong quá trình – nhưng sau đó bạn nhìn thấy một cỗ máy với than đá vào đầu này và kim cương ra ở đầu khác – điều này sẽ có xu hướng khiến bạn suy nghĩ lại. Và như thế, chúng ta đến với mặt thực tiễn trong chiêm tinh: thứ kết quả thực tế các chiêm tinh gia đạt được. Nếu việc đọc bản đồ sao và những lời khuyên họ cung cấp là hệ trọng, thì những ca phản biện chiêm tinh sập đổ. Những người hoài nghi và chiêm tinh gia sẽ chỉ cần phải đồng ý về những gì tạo nên sự “hệ trọng.”

Một cách hiển nhiên để kiểm tra chiêm tinh về tính hệ trọng là vạch ra rõ ràng mỗi thành phần cụ thể trong bản đồ sao có ý nghĩa gì – ví dụ như “khi [Arthur] Mather sử dụng dữ liệu cho 900 trận động đất đáng kể để kiểm tra nhận định nói rằng động đất thường xảy ra khi sao Thiên Vương đi qua Thiên Đỉnh hoặc Thiên Đế.”³⁵ Tư tưởng ấy – không phải là không có lý, nếu xét vẻ ngoài của chúng – có nghĩa là, nếu một vị trí đặc biệt, như một hành tinh cụ thể nằm trên Điểm mọc hoặc Thiên Đỉnh, có một ý nghĩa gì đó, thì sẽ khả thi trong việc truyền tải ý nghĩa đó sang một sự thật có thể thống kê.

Bài có thể cùng chủ đề:  Chiêm tinh học và Giải phẫu sự Hoài nghi (2/2)

1700 năm trước, chúng ta có Sextus Empiricus đã nói rằng: “Tôi khẳng định rằng nếu sự tiên đoán là đáng tin cậy, cùng một vị trí của các vì sao sẽ không nên chỉ được quan sát một lần duy nhất trong mối liên quan với cuộc sống của một con người, mà sẽ được quan sát lần hai với cuộc sống người thứ hai, lần ba với cuộc sống người thứ ba, đo đó từ sự ngang bằng giữa các hệ quả tác động trong tất cả các trường hợp, chúng ta sẽ biết được rằng khi các vì sao đã cấu thành một hình dạng nhất định, kết quả sẽ chắc chắn là một thứ cụ thể.”³⁶

Tôi tin là công bằng khi nói rằng chiêm tinh học không thể hiện mình giữa những kiểm nghiệm như thế này với tất cả sự nỗ lực của nó. Không nghi ngờ gì, những kiểm nghiệm tỉ mỉ và nổi tiếng nhất được đến từ Gauquelin,³⁷ đã cho thấy chiêm tinh có một tác động – nhưng là một tác động quá chuyên biệt cũng như vô dụng về mặt thực tế trong thực hành chiêm tinh. Lợi ích này không khiến ai mãn nguyện trong cuộc tranh luận: Những ai mong muốn nhìn thấy chiêm tinh được chứng minh lại tìm thấy một đụn đất nhỏ của bằng chứng ở nơi lẽ ra phải là một ngọn núi cao, trong khi những ai muốn bác bỏ chiêm tinh một lần và mãi mãi lại phải tìm cách xóa đi những dữ liệu cho thấy tác động của chiêm tinh có tồn tại.

Những phản biện liên quan đến việc các bài kiểm nghiệm chiêm tinh được trù định và thực hiện như thế nào thường được đặt ra, nhưng dường như không cần thiết phải lo lắng về việc các bài kiểm nghiệm ấy được lên kế hoạch như thế nào – chúng ta chỉ có khả năng nhìn vào cuộc sống của các “cặp sinh đôi cùng thời gian.”

John Addey lưu ý: “Nếu chiêm tinh học là đúng thì những người sinh cùng thời gian phải có những nhân tố giống nhau trong cuộc sống của họ…”³⁸ Ông không phải người đầu tiên phát biểu lập luận này. Vào cuối thế kỉ 17, John Gadbury đã yêu cầu độc giả niên giám của mình cung cấp cho ông thông tin ngày sinh và những “tai nạn” chính yếu của những trẻ em sinh vào ngày 4 và 5 tháng 9 năm 1664, để hỗ trợ ông trong dự án của mình về tái xây dựng chiêm tinh học cùng hàng lối với những môn khoa học khác.³⁹

Quay trở lại thời gian lâu hơn, chúng ta có Thánh Augustine viết rằng sự quan sát một cặp sinh đôi cụ thể ra đời trong cùng khoảnh khắc “có thể đủ để tiêu diệu… niềm tin vào chiêm tinh học.” Ông đã nghe về hai đứa trẻ sinh cùng mốc thời gian, sai số đến đơn vị phút – một thuộc gia đình giàu có, một từ một cô nô lệ – và cuộc sống của họ diễn ra theo những con đường rất khác nhau.⁴⁰

Pliny họ Elder bắt gặp bản thân trong một tình huống mà nhiều chiêm tinh gia sẽ phải ghen tị, của việc có quyền truy cập vào hồ sơ điều tra dân số. Ông càu nhàu rằng, từ những gì ông có thể thấy, những người sinh gần nhau không có tuổi thọ như nhau, hoặc cuộc đời giống nhau.⁴¹ Ngụ ý đó được lặp lại bởi Sextus Empricius, người đã quan sát rằng, những người sinh cùng khoảnh khắc, “…một số đã làm vua trong khi số còn lại già đi trong xiềng xích. Do đó, mặc dù nhiều người trên thế giới được sinh ra cùng một lúc, không ai tương đồng với Alexander của Macedon, hay Plato nhà triết họchọc.”⁴² (MV:89)

Sự Mơ Hồ

Một khu vực khác khuấy lên sự nghi ngờ chính là sự mơ hồ mà đôi khi được cáo buộc là một đặc điểm của tất cả các bài đọc bản đồ sao: “…tất cả chiêm tinh hoạt động trên ‘nguyên tắc Barnum’ khi nói về những điều mơ hồ và chung chung mà tất cả độc giả nghĩ rằng nó được áp dụng cho riêng họ” (Richard Dawkins)⁴³.

Luận điểm tương tự đã được nêu lên bởi luật sư Agathias (thế kỉ 6 CN, Constantinople): “Người nông dân Calligenes, khi đã gieo hạt giống của mình xuống đất, đã đến nhà chiêm tinh gia Aristophanes và hỏi rằng liệu ông có thể có một mùa hè thuận lợi và bội thu ngô. Và nhà chiêm tinh gia, lấy các máy tính, xếp chúng cạnh nhau trên bảng, khoằm ngón tay của mình lại và thốt lên câu trả lời với Calligenes: “Nếu cánh đồng ngô có đủ mưa, không phát sinh ra cỏ dại, sương giá không làm nứt luống cày, hay mưa đá không tước đi các lá đang mọc mầm, nai không ăn lấy cây trồng, không có thương tổn nào về thời tiết hoặc đất đai, ta tiên đoán một mùa hè bội thu, ngươi sẽ gặt hái thành công, chỉ sợ lũ châu chấu.”⁴⁴

Phản ứng lại với sự mập mờ này, nhiều người đã thử thách và kiểm nghiệm chiêm tinh gia trước khi họ bắt tay vào công việc. Ngày nay khách hàng có thể hỏi, ‘vậy thì cung hoàng đạo của tôi là gì nào?’ để (họ tưởng tượng) có thể kiểm tra xem liệu chiêm tinh gia có biết rõ những vấn đề cỏn con của họ. Vào thời xưa thì mọi chuyện có thể kịch tính hơn. Trong Quyển sách của Daniel (2.2 – 2.6) vua Nebuchadrezzer Đệ nhị gặp rắc rối với một giấc mơ và triệu tập tất cả các pháp sư cùng chiêm tinh gia để yêu cầu họ giải mộng. Họ nói rằng, được thôi, hãy cho chúng tôi biết ngài mơ thấy gì. Ông ta nói, không – các ngươi cũng phải nói cho ta biết giấc mơ đó là gì; “nếu các ngươi không cho ta biết giấc mộng đó là gì, cùng với lời giải mộng, các ngươi sẽ bị phanh thây, và nơi ở của các ngươi sẽ trở thành chỗ chứa phân. Nhưng nếu các ngươi chỉ ra được giấc mộng đó cùng với lời giải mộng, các ngươi sẽ được ta ban lễ vật và vinh dự lớn lao; vậy nên hãy nói cho ta nghe về giấc chiêm bao cùng ý nghĩa của nó.”

Các Chiêm Tinh Gia Thường Sai Lạc

Nếu các chiêm tinh gia không nói những điều mơ hồ, thì dĩ nhiên, vấn đề sẽ xuất hiện nếu những điều họ nói là sai. Cicero đã nói rất thú vị: “Không đếm xuể những lời tiên tri Chaldean mà tôi nhớ được được lặp lại với Pompey, Crassus và với chính Caeser! Dựa vào việc, lúc bấy giờ không ai trong số những anh hùng trên định sẵn cái chết ngoại trừ cái chết ở tuổi già, cái chết trong hạnh phúc gia đình, và tiếng tăm hoàn hảo; thế nên tôi tự hỏi rằng có người còn sống nào có thể tin vào những kẻ lừa đảo này, khi những dự đoán họ đưa ra bị biến đổi hằng ngày bởi sự kiện và kết quả.”⁴⁵

Và Nếu Như Nó Thật Sự Hiệu Quả

Trong sự đấu tranh thoát khỏi vũng lầy này, các chiêm tinh gia được đón chờ bởi một tình thế lưỡng nan khác, thứ cho rằng một bài đọc bản đồ sao có chính xác thì cũng không nói lên được gì.

Có rất nhiều biến thể về chủ đề này. Augustine nhận định, “khi các chiêm tinh gia đưa ra những phản hồi đúng đắn một cách bất ngờ, họ đã được truyền lửa, bằng một cách bí ẩn nào đó, bởi các linh hồn, nhưng là linh hồn của quỷ, mà việc của chúng là truyền dẫn và củng cố những ý niệm sai lầm và độc hại về ‘định mệnh trên các vì sao’. Những tiên đoán chính xác không xuất phát từ bất kì kĩ năng lần giải hay xem xét bản đồ sao; mà là một môn nghệ thuật giả mạo.”⁴⁶ Thế thì dù cho có chính xác, nó cũng không phải chiêm tinh học. Để khiến phản biện trông có vẻ hiện đại hơn, hãy thay thế ‘linh hồn của quỷ’ bằng ‘sự tình cờ’: “những tiên đoán chính xác đến từ sự tình cờ.”

Một lần nữa, dự đoán chiêm tinh có thể được xem như là những lời tiên đoán tự hoàn mãn, như trong nhận xét của Thomas Sprat: “Quan sát theo thường lệ, những lời tiên đoán và những vận hạn trong tiên tri thường báo trước về các tai ương khủng khiếp, hoặc nạn diệt vong của loài người. Dù bản thân những điềm báo và những việc phi thường ấy không biểu thị những sự kiện như thế, nhưng sự ập đến của tai họa được chấp nhận một cách khá tự nhiên. Nỗi u sầu, sự khiếp đảm và thứ Trò Đùa Chiêm tinh này khiến trái tim con người không còn sức tự vệ, chúng phá vỡ lòng dũng cảm của họ; làm bối rối Hội đồng tối cao bên trong họ, góp phần khiến họ tự chuốc lấy những tai ương đó cho bản thân…”⁴⁷

William Lilly dĩ nhiên nhận ra mình ở một đầu của sự nghi ngờ trên khi ông dự đoán cuộc hỏa hoạn ở London – vụ việc đã được lôi ra trước Quốc hội với cơ sở rằng, nếu nó không xảy ra như ông dự đoán, thì ông ta hẳn phải tự mình châm lửa⁴⁸.

Phần Ba: Hoài nghi trong Bối cảnh của Chiêm tinh

__

Tham khảo và Chú thích

1. Phỏng vấn này xuất hiện trong Garry Phillipson, Astrology in the Year Zero, London: Flare Publishing, 2000, tr. 124–166 (chương 9 và 10). Phiên bản mở rộng của bài phỏng vấn này có thể được tìm thấy trên web tại: www.astrozero.btinternet.co.uk/research.htm và: www.astrology-andscience.com/introinterv.htm. Bài viết này được khuyến khích đọc cho những ai còn xa lạ với cụm “chủ nghĩa hoài nghi” và “nghi ngờ” được sử dụng trong bài viết này.
2. John Anthony West, The Case for Astrology, London: Arkana, 1992.
3. Suitbert Ertel và Kenneth Irving, The Tenacious Mars Effect, London: Urania Trust, 1996. Đồng thời, xem những thảo luận và nghiên cứu tiếp theo trong tạp chí Correlation, tạp chí dành cho nghiên cứu chiêm tinh của Hiệp hội Chiêm tinh (Astrological Association).
4. James Hillman, Re-visioning Psychology, New York: HarperCollins, 1972, tr. 107.
5. Carl Gustav Jung, Memories, Dreams, Reflections, dịch R. và C. Winston, London: Collins, 1963, tr. 155. Cụm này xuất hiện cùng ngoặc kép trong quyển sách; có thể Jung đã trích lại từ một nguồn khác có trước.
6. Phillipson, Astrology in the Year Zero, tr. 125.
7. Tamsyn Barton, Ancient Astrology, London: Routledge, 1994, tr. 11.
8. Jim Tester, A History of Western Astrology, Woodbridge, Suffolk, UK, Boydell Press, 1987, tr. 95–97.
9. Jim Tester, tr. 177.
10. tr.73 (IV 3) – St Augustine (Tr. RS Pine-Coffin), Confessions. London: Penguin, 1961.
11. tr.208 (II IX) – Cicero (Tr. CD Yonge), On Divination (with ‘The Nature of the Gods’). NY: Prometheus Books, 1997. Từ in nghiêng trong trích dẫn này là của tôi.
12. Richard Dawkins, “The Real Romance in the Stars,” trong Independent on Sunday, 31 December 1995. Tái bản trong The Astrological Journal, May/June 1996, Vol. 38, No. 3. Đồng thời tại: www.astrologicalassociation/pub/journal/romance.html
13. Cicero, On Divination (with The Nature of the Gods), dịch C. D. Yonge, New York: Prometheus Books, tr. 238 (II.XLIII) và tr. 239 (II.XLV).
14. tr.80 (II 3 8) – Plotinus (Tr. McKenna Abr. Dillon), The Enneads. London: Penguin, 1991.
15. Dawkins 1995.
16. tr.332 – Geoffrey Cornelius, The Moment of Astrology. London: Penguin, 1994. Xem giới thiệu của Cornelius về phê bình chiêm tinh của Pico della Mirandola trong lược đồ gấp 7, tr.330-4. Sách của Cornelius là một ví dụ tài tình và hiếm thấy của một chiêm tinh gia vật lộn với những vấn đề được đưa ra bởi những nghiên cứu hoài nghi về chiêm tinh học.
17. Tester, Western Astrology, tr. 179.
18. tr.351 (V 65) – Sextus Empiricus (dịch RG Bury), Against the Professors. Cambridge, Mass: Harvard, 1949. Đồng thời xem bài viết tại: http://www.astrology-andscience.com/sextus.html.
19. tr.54 – Barton.
20. tr.101 – Herbert C Corben, The Struggle to Understand. NY: Prometheus Books, 1991.
21. tr.333 – Cornelius, op. cit.
22. tr.128 – Phillipson, op. cit.
23. Phillipson, tr. 161.
24. Ibid., tr. 53. Đồng thời xem Barton, Ancient Astrology, tr. 54, cho góc nhìn tương tự từ Favorinus.
25. Claudius Ptolemy, Tetrabiblos, dịch. F. E. Robbins, Cambridge, MA: Harvard University Press, 1940, tr. 227.
26. tr.332 – Cornelius, op. cit.
27. Dawkins, op cit.
28. tr.54 – Tester, op. cit.
29. Michael Baigent, From the Omens of Babylon, London: Penguin, 1994, tr. 55.
30. Tester, Western Astrology, tr. 182.
31. Phillipson, tr. 157.
32. Patrick Curry, Prophecy and Power, Oxford, England: Polity Press, 1989, tr. 61.
33. Ibid., tr. 76.
34. Phillipson, tr. 183.
35. Ibid., tr. 125. Dean và cộng sự đang được trích dẫn.
36. Sextus Empiricus, Against the Professors, dịch R. G. Bury, Cambridge, MA: Harvard University Press, 1949, tr. 369 (V. 103).
37. Xem Ertel và Irving, The Tenacious Mars Effect, để có tóm tắt về công trình của Gauquelin.
38. John Addey, Selected Writings, Tempe, AZ: American Federation of Astrologers, 1976, tr. 54.
39. Curry, Prophecy and Power, tr. 75.
40. St. Augustine, Confessions, dịch R. S. Pine-Coffin, London: Penguin, 1961, tr. 140.
41. tr.55-6 – Barton, op. cit.
42. tr. 361 (V 88-9) – Sextus Empiricus, op. cit.
43. Dawkins, op. cit.
44. tr.104 – Corben, op. cit.
45. tr.241 (II XLV) – Cicero, op. cit.
46. tr.188 (V 8) – St Augustine (tr. H Bettenson), The City of God. London: Penguin, 1984.
47. tr.60 – Curry, Prophecy & Power, op. cit.
48. tr.215ff – William Lilly, History of His Life and Times. London: 1715 (tái bản bởi Ascella). Để biết thêm về dự đoán của Lily – và nó đã trông chính xác như thế nào, bất chấp những phản đối trước Quốc hội – xem Maurice McCann, The Secret of William Lilly’s Prediction of the Fire of London. Astrological Journal Vol XXXII, No.1 (Jan/Feb 1990); hiện có thể truy cập trên web tại: http://www.astrozero.btinternet.co.uk/fire_of_london.htm.

__

Garry Phillipson bắt đầu công việc chiêm tinh của mình từ năm 1976. Tác phẩm của ông, Astrology in the Year Zero, được xuất bản vào năm 2000, là kết quả của quá trình nghiên cứu tính triết lý và những mệnh đề trụ cột trong chiêm tinh học. Những bài viết và diễn thuyết của ông có thể được tìm thấy dưới sự bảo hộ của các Hiệp hội Chiêm tinh dày dạn kinh nghiệm (Astrological Association of Great Britain, Astrological Lodge, Company of Astrologers, Urania Trust, Standing Conference on Organizational Symbolism, The Mountain Astrologer và Ascella.) Hiện tại ông vừa hoàn tất luận án Tiến sĩ về Chiêm tinh và Sự thật tại Đại học Wales Trinity Saint David. Đồng thời ông cũng từng có thời gian dài gắn bó với triết học trong Phật giáo, và gần đây là triết lý Vệ Đà.
Website của Garry là www.astrozero.co.uk, ngoài ra trang www.cosmocritic.com cũng được ông quản lý.

__

Dịch từ Astrology and the Anatomy of Doubt dưới sự cho phép của tác giả.

Copyright © Garry Phillipson. Bản dịch © Saturn Cafe

Ảnh: Daily Generated Art

 

Write a Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *